Trên cơ sở tư vấn, hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, các hộ đã chủ động đầu
tư xây dựng bể, cải tạo ao nuôi; mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị như máy quạt nước, máy thổi khí, máy phát điện dự phòng... và các thiết bị cần thiết khác để triển khai thực hiện mô hình.
Sở Nông nghiệp & PTNT đã phân công cán bộ kỹ thuật luôn bám sát cơ sở để hướng dẫn các hộ thực hiện nghiêm quy trình kỹ thuật: xây dựng bể, ao nuôi; lắp đặt máy móc, thiết bị; xử lý nguồn nước trước khi thả giống; lựa chọn thức ăn, con giống; ghi chép Sổ theo dõi sử dụng thức ăn, chất xử lý, cải tạo môi trường,thuốc phòng, trị bệnh. Đồng thời, thường xuyên cập nhật thông tin tình hình triển khai thực hiện mô hình và kiểm tra, đánh giá tiến độ thực hiện.
Hiệu quả mô hình nuôi cá ứng dụng công nghệ “sông trong ao"đạt được:
Mô hình nuôi cá ứng dụng công nghệ “sông trong ao" được triển khai thực hiện đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu của Đề án đề ra.
Các hộ tham gia mô hình đã cơ bản thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, ghi chép sổ sách đầy đủ, không sử dụng hóa chất, thuốc phòng, trị bệnh trong danh mục cấm sử dụng theo quy định của Bộ Nông nghiệp & PTNT; được tham quan, tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ tiền mua cá giống, hóa chất, thuốc phòng trị bệnh đầy đủ và được tư vấn kỹ thuật trong suốt quá trình thực hiện mô hình.
Đây là mô hình nuôi cá ứng dụng công nghệ cao được triển khai trên địa
bàn tỉnh, không chỉ cho năng suất rất cao (đạt 15-20 tấn/bể, 25-30 tấn/ha/vụ nuôi), gấp 4-5 lần năng suất nuôi truyền thống, mà còn cho chất lượng sản phẩm cao, an toàn vệ sinh thực phẩm. Cá được nuôi trong điều kiện nước chảy, vận động liên tục, không tiếp xúc trực tiếp với bùn đáy, được sinh trưởng trong môi trường trong sạch và được kiểm soát các yếu tố đầu vào, do đó chất lượng thịt cá săn chắc, thơm ngon hơn so với nuôi trong ao nước tĩnh truyền thống.
Mô hình nuôi cá “sông trong ao" còn giúp chủ động nguồn nước tại chỗ,
không phụ thuộc nhiều vào nguồn nước cấp bổ sung, nước trong ao không cần thay thế mà có thể sử dụng tuần hoàn liên tục nhiều năm (7 - 8 năm), khắc phục được tình trạng khó khăn về nguồn nước cấp cho NTTS hiện nay. Thay vì phải thay nước, hệ thống này không thay và thải nước ra ngoài, không gây ô nhiễm mô trường, tránh bị lây lan chéo mầm bệnh giữa ao nuôi và môi trường xung quanh.