Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Kết quả thực hiện Nghị quyết số 90/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Quy hoạch tổng thể Quốc gia thời kỳ 20...

Thông tin tuyên truyền, phổ biến  
Kết quả thực hiện Nghị quyết số 90/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Quy hoạch tổng thể Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
Báo cáo số 45/BC-SNN ngày 15/01/2025 của Sở Nông nghiệp & PTNT về kết quả thực hiện Nghị quyết số 90/NQ-CP ngày 16/6/2023 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện quy hoạch tổng thể Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Thực hiện Công văn số 113/SKHĐT-THQH ngày 13/01/2025 của Sở Kế hoạc và Đầu tư về báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 90/NQ-CP ngày 16/6/2023 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Quy hoạch tổng thể Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Sở Nông nghiệp và PTNT xin báo cáo kết quả thực hiện đến hết năm 2024 như sau:

I. Về việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm của Quy hoạch tổng thể quốc gia

- Tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2024 đạt 8.550,4 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 0,1% so năm 2023 đạt 97,8% kế hoạch.

- Năng suất lúa cả năm ước đạt 61,4 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực cả năm ước đạt 363.024,5 tấn; trong đó sản lượng lúa cả năm ước đạt 337.713,5 tấn.

- Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 101.396,6 tấn, tăng 2,2% so với năm 2023 và tăng 1,7% kế hoạch.

- Tổng sản lượng thủy sản đạt 24.718 tấn (Trong đó sản lượng nuôi trồng 24.225,4 tấn, sản lượng khai thác 493,2 tấn) bằng 97,3% năm 2023 và bằng 96,55% kế hoạch.

- Đến nay tỉnh Hà Nam có 83/83 xã đạt chuẩn NTM, 29 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 19 xã đạt NTM kiểu mẫu. Dự kiến năm 2024 trình UBND tỉnh công nhận 13 đến 15 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và từ 1 đến 2 xã NTM kiểu mẫu.

- Trình, công nhận thêm 27 sản phẩm OCOP hạng 3 sao, nâng tổng số sản phẩm OCOP là 157 sản phẩm hạng 3 sao trở lên.

- Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đến hết năm 2024 đạt 68,6 triệu đồng/năm.

- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh ước đạt 100%, trong đó tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung đạt 91%.

- Độ che phủ rừng đạt 6,26% vượt so với kế hoạch đề ra (kế hoạch 4,5%).

II. Về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2024

1. Kết quả đạt được

a) Nâng cấp hạ tầng thuỷ lợi, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu

Trong năm 2024, được sự quan tâm sát sao và trực tiếp chỉ đạo của lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh, với sự vào cuộc quyết liệt của ngành Nông nghiệp, lĩnh vực nước sạch nông thôn, thủy lợi đê điều đã đạt được những kết quả:

- Về xây dựng kết cầu hạ tầng thủy lợi: Đang cải tạo, nâng cấp kênh A4-8 (đoạn từ cầu vượt Đồng Văn đến trạm bơm Hoành Uyển), kênh A4-6 (đoạn từ giao đường QL.38 đến trạm bơm Bùi II), kênh A4-8-29 thị xã Duy Tiên; kênh BH8, kênh A3-4 thành phố Phủ Lý; kênh CG5, kênh Tân Hòa huyện Bình Lục; các công trình thuộc dự án sửa chữa, nâng cấp hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà và Xuân Thủy, tỉnh Hà Nam (đập Quan Trung+Vĩnh Trụ, Cống lấy nước trạm bơm Nhâm Tràng, Như Trác) huyện Lý Nhân; đang tổ chức thi công các dự án Cải tạo, nâng cấp các trạm bơm Quế I, Hoàng Tây, xây mới trạm bơm Tân Sơn 2,…ngoài ra năm 2024 còn thực hiện nạo vét, kiên cố hóa được 16,45 km kênh mương tưới, tiêu các loại. Các công trình, dự án này sau khi được thi công sẽ nâng cao năng lực đảm bảo công tác tưới, tiêu phục vụ sản xuất và đáp ứng yêu cầu tiêu nước phục vụ phát triển dân sinh, kinh tế trên địa bàn tỉnh.

- Về xây dựng kết cầu hạ tầng đê điều, PCTT: Hoàn thành dự án duy tu, bảo dưỡng hệ thống đê điều năm 2024 đối với các công trình đê điều thuộc tuyến đê hữu Hồng, tả Đáy. Đang tổ chức triển khai thi công các dự án: thành phần số 12: nâng cấp tuyến đê tả Đáy đoạn K117+810 đến K129+000, tỉnh Hà Nam; Xây dựng bổ sung công trình phục vụ phòng chống lụt bão, kết hợp giao thông đê hữu Hồng khu vực thượng lưu cống âu Tắc Giang, tỉnh Hà Nam, đang tổ chức khảo sát địa chất phục vụ lập báo cáo nghiên cứu khả thi phần công trình cho các tiểu dự án thuộc tỉnh Hà Nam, Dự án Quản lý tổng hợp rủi ro lũ lụt thích ứng biến đổi khí hậu thành phần Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (CAIFRM/ADB10),…

Ngoài ra Sở Nông nghiệp và PTNT thường xuyên rà soát các hạng mục công trình thủy lợi trong quy hoạch tỉnh, quy hoạch vùng huyện đề xuất UBND tỉnh, Bộ ngành, trung ương đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây mới các công trình thủy lợi giai đoạn năm 2026-2030 để đáp ứng yêu cầu tưới, tiêu phục vụ sản xuất và phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là công tác tiêu nước cho các khu công nghiệp, đô thị, khu công nghệ cao.

- Về công tác phòng, chống thiên tai:

+ Tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo các Sở ngành, địa phương triển khai Công điện, Văn bản chỉ đạo của Trung ương sát với đặc điểm tình hình thực tế tại địa phương trong đợt mưa lũ tháng 7, tháng 8, cơn bão số 3 (Yagi) và đợt lũ lịch sử trên 2 hệ thống sông Hồng, sông Đáy đầu tháng 9, chuẩn bị các nội dung phục vụ đoàn kiểm tra của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Bộ, ngành Trung ương về kiểm tra công tác ứng phó, khắc phục với bão và mưa lũ.

+ Chủ động triển khai các nhiệm vụ Quỹ PCTT năm 2024, truy thu Quỹ PCTT từ năm 2018-2023; tổ chức các lớp tập huấn kiến thức, kỹ năng cho lực lượng xung kích PCTT cấp xã có đê từ cấp III trở lên trên địa bàn huyện Lý Nhân và huyện Thanh Liêm.

b) Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo

- Đối với cây lúa: Đẩy mạnh chuyển dịch từ các giống lúa lai có năng suất cao, sản lượng lớn, chuyển sang sản xuất các giống lúa hàng hóa, chất lượng có giá trị thu nhập cao (năm 2024 diện tích đã đạt >50%). Đối với cây rau màu: Tập trung chỉ đạo phát triển các giống cây trồng có giá trị kinh tế cao, đảm bảo an toàn thực phẩm, có thị trường tiêu thụ ổn định như: dưa chuột xuất khẩu, bí đỏ, bí xanh, rau đậu các loại. Đối với các loại cây ăn quả: Hiện nay, diện tích trồng cây ăn quả tập trung đã được người dân thay thế bằng các giống cây trồng có năng suất và giá trị cao như: giống vải u trứng, giống ổi Đài Loan, giống bưởi Diễn, bưởi đỏ, bưởi thồ,... giống nhãn đường phèn, nhãn lồng, giống đại táo... với diện tích khoảng 700 ha, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên ha đất nông nghiệp.

- Đối với lâm nghiệp: Tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng, khai thác rừng trái pháp luật, phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh Hà Nam, bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, trồng rừng lại sau khai thác. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 6,26%.

- Lĩnh vực chăn nuôi: Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2024 ước đạt 101.396,6 tấn. Chăn nuôi lợn tiếp tục duy trì, phát triển ổn định theo hướng trang trại, chăn nuôi chuyên nghiệp, chăn nuôi nhỏ lẻ theo quy mô hộ ngày càng giảm. Năm 2024 ước đạt 381,52 nghìn con, sản lượng ước đạt 73.600 tấn. Tỷ lệ đàn lợn nuôi theo hình thức trang trại và hộ chăn nuôi chuyên nghiệp đạt trên 70% về tổng đàn, 80% về tổng sản lượng, đạt 100% so với chỉ tiêu Kế hoạch thực hiện Nghị quyết. Đàn gia cầm năm 2024 ước đạt 9 triệu con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 25.200 tấn; Tỷ lệ chăn nuôi gia cầm quy mô trang trại và chăn nuôi chuyên nghiệp chiếm khoảng 60% về tổng đàn và chiếm trên 70% về tổng sản lượng. Tổng đàn trâu, bò đạt 36.760 con. Tổng sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng đạt 2.597 tấn; sản lượng sữa tươi đạt 11.690 tấn.

- Lĩnh vực thủy sản: Tổng sản lượng thủy sản năm 2024 ước đạt 24.718,6 tấn. Sản xuất thủy sản đa dạng về đối tượng và hình thức nuôi. Diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh được mở rộng, một số hình thức, đối tượng nuôi tiên tiến như nuôi ao nổi lót bạt, nuôi cá lăng, cá chép giòn trong ao, nuôi ốc, nuôi lươn không bùn,… được đưa vào sản xuất. Các mô hình nuôi cá ứng dụng công nghệ “sông trong ao" tiếp tục được duy trì đã góp phần nâng cao giá trị trên diện tích canh tác. Toàn tỉnh hiện có 560 lồng nuôi cá trên sông Hồng với tổng thể tích ước khoảng 61.260m3, năng suất đạt từ 2-6 tấn/lồng tuỳ theo đối tượng nuôi, góp phần nâng cao sản lượng, giá trị sản xuất thủy sản của tỉnh. Tỷ lệ giá trị sản phẩm thủy sản được sản xuất dưới hình thức hợp tác và liên kết đạt khoảng 30%.

- Ứng dụng khoa học công nghiệ: Các tiến bộ khoa học mới, tiên tiến trong thời gian qua đã được chuyển giao ứng dụng rộng rãi trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là việc ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao vào sản xuất. Đây được đơn vị xác định là nhiệm vụ đột phá nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao giá trị và chất lượng nông sản. Đến nay, toàn tỉnh có 4 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với tổng diện tích 494,5 ha. Diện tích đất đã tích tụ, tập trung là 224,18/494,5 ha cho 05 doanh nghiệp thuê sản xuất rau củ quả, hoa ứng dụng công nghệ cao. Giá trị, hiệu quả kinh tế của các mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao gấp 3 – 4 lần so với sản xuất đại trà. Bên cạnh đó, việc áp dụng cơ giới hoá vào trong sản xuất nông nghiệp  được quan tâm và triển khai quyết liệt. Đến nay tỉ lệ cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp làm đất đạt 100%, thu hoạch đạt 97,5%; gieo trồng đạt 55%; bảo quản, chế biến nông sản đạt 45%. Việc áp dụng cơ giới hoá vào trong sản xuất góp phần quan trọng vào giải phóng sức lao động nặng nhọc cho người dân, là lời giải cho bài toán chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các khu công nghiệp và dịch vụ như hiện nay. Góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho các vùng nông thôn.

c. Tham mưu các cơ chế chính sách để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh.

Sở Nông nghiệp và PTNT chủ động tham mưu UBND tỉnh ban hành các Kế hoạch, Quyết định hỗ trợ để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới phát triển bền vững, cụ thể như:

- Kế hoạch số 2014/KH-UBND ngày 17/10/2023 đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập thông tin, dự báo tình hình thị trường nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030;

- Quyết định số 1200/QĐ-UBND ngày 19/10/2023 về việc phê duyệt Đề án “Chuyển đổi cây trồng, vật nuôi và phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2023-2025";

- Kế hoạch 2201/KH-UBND ngày 13/11/2023 của UBND tỉnh về Hỗ trợ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp năm 2023;

- Kế hoạch số 2211/KH-UBND ngày 14 tháng 11 năm 2023 triển khai thực hiện Chỉ thị số17-CT/TW ngày 21/10/2022 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới" trên địa bàn tỉnh Hà Nam;

- Kế hoạch số 2292/KH-UBND ngày 27/11/2023 về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Hà Nam năm 2024; Kế hoạch số 2109/KH-UBND ngày 20/10/2023 về việc thực hiện Chương trình OCOP năm 2024;

- Kế hoạch số 2293/KH-UBND ngày 27/11/2023 Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động ông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2025; 

- Kế hoạch số 344/KH-UBND ngày 01/3/2024 về việc bảo tồn và phát triển làng nghề 2024 - 2025;

- Kế hoạch số 1911/KH-UBND ngày 24/9/2024 về việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;

- Kế hoạch số 648/KH-UBND ngày 17/4/2024 về đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm gia tăng chế biến và phát triển thị trường nông lâm thuỷ sản năm 2024.

d. Việc quản lý diện tích đất lúa và quản lý chặt chẽ đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, phục hồi rừng tự nhiên gắn bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái.

Tổng diện tích gieo trồng lúa của toàn tỉnh cả năm (02 vụ) đạt 56.030,35 ha. Đến nay, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn tỉnh vẫn đảm bảo các chỉ tiêu đất theo Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 9/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phân bổ chỉ tiêu Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, Kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021-2025; Quyết định số 227/QĐ-TTg ngày 12/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh một số chỉ tiêu sử dụng đất đến năm 2025 được Thủ tướng Chính phủ phân bổ tại Quyết định 326/QĐ-TTg ngày 9/3/2022 để đảm bảo an ninh lương thực.

Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn tỉnh: 6.493,72 ha, trong đó: Rừng phòng hộ: 2.943,71 ha; Rừng sản xuất: 690,40 ha; Rừng ngoài quy hoạch cho Lâm nghiệp 1.776,08 ha; Đất chưa có rừng: 1.083,53 ha. Sở đã chỉ đạo đơn vị chuyên môn làm tốt công tác quản lý bảo vệ rừng, sử dụng và phát triển rừng, phòng cháy chữa cháy rừng,… Tỷ lệ che phủ rừng đạt 6,26%. Ngành đang tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng Dự án thành lập khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mông trắng tại huyện Kim Bảng, triển khai điều tra hiện trạng xây dựng báo cáo chuyên đề và báo cáo tổng hợp; thống nhất phạm vi ranh giới và các phân khu chức năng của khu bảo tồn; hoàn thiện hồ sơ, thủ tục liên quan đến Dự án trình cấp có thẩm quyền quyết định thành lập Khu bảo tồn với diện tích 3.182 ha. Phối hợp với Tổ chức Bảo tồn động, thực vật hoang dã Quốc tế (FFI) thành lập Tổ bảo vệ rừng (BVR) để tuần tra, giám sát, bảo vệ, bảo tồn loài Voọc mông trắng, chè hoa vàng và các loài động thực vật khác hiện có trong khu rừng dự kiến bảo tồn.

2. Đánh giá chung về kết quả thực hiện

Qua quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, đến nay cơ cấu kinh tế nội bộ ngành chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi - thủy sản, giảm dần tỷ trọng trồng trọt - lâm nghiệp. Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp, cơ bản đảm bảo phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thu hút được một số doanh nghiệp lớn đầu tư sản xuất, có nhiều sản phẩm đưa ra thị trường. Tỷ lệ cơ giới hoá trong sản xuất tăng cao, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trên tổng lao động xã hội.

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và sự đồng thuận của nhân dân trong tỉnh trong việc triển khai thực hiện các chương trình: Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), các chương trình, đề án phát triển nông nghiệp nông thôn... góp phần không nhỏ thay đổi diện mạo hạ tầng nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống, tăng thu nhập của người dân.

3. Tồn tại, hạn chế

- Hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp ở một số địa phương chưa đồng bộ. Việc huy động nguồn lực để triển khai thực hiện đạt chuẩn các chỉ tiêu, tiêu chí xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu của một số xã còn gặp nhiều khó khăn nên tiến độ thực hiện đạt chuẩn các chỉ tiêu, tiêu chí còn chậm so với kế hoạch.

- Nguồn vốn phân bổ để triển khai thực hiện các hoạt động phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mỗi xã một sản phẩm đôi khi chưa kịp thời do đó ảnh hưởng tiến độ thực hiện. Việc triển khai một số chương trình, đề án đôi lúc còn chậm.

- Một số sản phẩm tham gia Chương trình OCOP quy mô sản xuất còn nhỏ, sự liên kết sản xuất, tiêu thụ chưa bền vững. Chủ cơ sở sản xuất chưa quan tâm đầu tư xây dựng thương hiệu sản phẩm, quảng bá, giới thiệu sản phẩm...

- Công tác thu hút, mời gọi các nhà đầu tư vào nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gặp nhiều khó khăn. Chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia trong quá trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp của tỉnh chưa có tính cạnh tranh cao.

- Lực lượng lao động trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là phụ nữ và người trung tuổi, trình độ học vấn không cao; lao động thường xuyên tham gia sản xuất kinh doanh trong các làng nghề có xu hướng giảm và một số làng nghề đang có nguy cơ bị mai một.

- Năng lực quản lý và khả năng tiếp cận thị trường, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm của chủ cơ sở trong các làng nghề còn hạn chế; trình độ tay nghề của lao động chưa cao, năng suất lao động còn thấp; nhiều sản phẩm làng nghề chưa xây dựng thương hiệu; một số sản phẩm làng nghề được xuất khẩu tuy nhiên xuất khẩu chủ yếu qua khâu trung gian. Công tác xây dựng và thực hiện phương án bảo vệ môi trường theo quy định còn chậm, công trình bảo về môi trường còn ít; xử lý ô nhiễm môi trường tại làng nghề chưa triệt để, tình trạng xả hải ra hệ thống tiêu nước chung gây ô nhiễm môi trường còn diễn ra.

4. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

- Ruộng đất manh mún nhỏ lẻ, hạ tầng chưa đồng bộ nên việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa còn hạn chế. Một số địa phương chưa tích cực chủ động xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện duy trì, nâng cao chất lượng các chỉ tiêu, tiêu chí nông thôn mới và chưa thực sự phát huy hết nội lực trong nhân dân.

- Các sản phẩm tham gia Chương trình OCOP sản xuất thủ công, bán thủ công, thiếu tính liên kết trong sản xuất và tiêu thụ; một số sản phẩm chưa quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu ổn định. Chủ thể tham gia Chương trình OCOP chưa quan tâm các tiêu chuẩn chất lượng cao, tem nhãn, đầu tư về khoa học công nghệ, kiến thức thị trường.

- Sản xuất nông nghiệp có mức độ đầu tư lớn, khả năng thu hồi vốn chậm, thị trường tiêu thụ bấp bênh, mức độ rủi ro cao vì vậy rất khó khăn trong việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư, liên kết sản xuất. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu gia tăng theo chiều hướng xấu, dịch bệnh trên cây trồng và đàn vật nuôi diễn biến phức tạp, khó lường gây thiệt hại sản xuất nông nghiệp.

- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm giảm diện tích đất nông nghiệp; lao động trong khu vực nông nghiệp ngày càng giảm do chuyển sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; một bộ phận nông dân không quan tâm với sản xuất nông nghiệp, thậm chí bỏ ruộng hoang không canh tác.

- Công tác quản lý, phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề của một số địa phương chưa được quan tâm, chú trọng đúng mức. Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước cho phát triển ngành nghề, làng nghề còn hạn chế; thu nhập từ làng nghề còn thấp và không ổn định nên nhiều hộ không còn tha thiết với nghề dẫn đến tình trạng bỏ nghề, chuyển nghề đang có chiều hướng gia tăng; nguyên liệu của một số nhóm ngành nghề như dệt may, mây tre đan, trống, sản xuất đồ gỗ, sừng tại địa phương đa số nhập nguồn nguyên liệu từ các địa phương khác hoặc nhập khẩu.

- Các cơ sở sản xuất trong làng nghề chủ yếu là nông hộ, quy mô nhỏ, nằm xen kẹp trong khu dân cư khó có khả năng mở rộng sản xuất cũng như gây khó khăn trong công tác xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường, đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường và giữ gìn vệ sinh môi trường của các hộ, cơ sở sản xuất kinh doanh trong một số làng nghề còn hạn chế.

III. Giải pháp thực hiện

- Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thông tin tuyên truyền; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền các cấp về cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nâng cao chất lượng nông thôn mới và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp.

- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sản xuất nông nghiệp; đảm bảo sử dụng có hiệu quả đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp. Bố trí quỹ đất phục vụ phát triển các vùng sản xuất tập trung đối với sản phẩm chủ lực, phát huy lợi thế sản phẩm, lợi thế vùng. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, hợp tác xã dồn đổi, tập trung đất đai, sản xuất quy mô lớn sản xuất theo chuỗi giá trị.

- Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng mở rộng diện tích lúa chất lượng, lúa dành cho chế biến; sản xuất sản phẩm trồng trọt có chất lượng cao, an toàn vệ sinh thực phẩm gắn với xây dựng thương hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường và nâng cao giá trị sản phẩm.

- Ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất: Tăng cường chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao phù hợp với yêu cầu sản xuất và nhu cầu thị trường đặc biệt là các cây trồng vật nuôi, sản phẩm chủ lực của tỉnh. Đẩy mạnh việc dồn đổi, tập trung đất đai để áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất từ khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch, bảo quản chế biến. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ phát triển các khu chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tập trung, các vùng sản xuất lúa, rau, củ, quả hữu cơ, theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tiêu chuẩn VietGap, Globalgap; khuyến khích áp dụng công nghệ trong xử lý bảo vệ môi trường trong chăn nuôi. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, công nghệ thông tin trong các khâu của chuỗi giá trị; kết nối đồng bộ với các ngành và lĩnh vực khác để từng bước hình thành nền sản xuất nông nghiệp thông minh, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, lao động, nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh và phát triển bền vững.

- Đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ trình độ tiếp cận công nghệ hiện đại để chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và thực hiện các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

- Tập trung hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính, huy động các nguồn lực phục vụ sản xuất nông nghiệp, nâng cấp hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn mới bền vững, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.

- UBND tỉnh tiếp tục quan tâm đầu tư các hạng mục công trình thủy lợi, đê điều đã được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát trong các báo cáo đề xuất các công trình, dự án đầu tư công trong giai đoạn 2026-2030 trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

Trên đây là báo cáo kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết số 90/NQ-CP ngày 16/6/2023 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Quy hoạch tổng thể Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề nghị Sở Kế hoạch & Đầu tư xem xét tổng hợp./.

Phòng Kế hoạch Tài chính