Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Mô hình ứng dụng giống lúa thuần mới chất lượng cao HDT10 gắn với thị trường tiêu thụ

Thông tin phát triển ngành  
Mô hình ứng dụng giống lúa thuần mới chất lượng cao HDT10 gắn với thị trường tiêu thụ
Thực hiện Đề án ứng dụng một số giống cây trồng mới chủ yếu theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô tập trung gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm giai đoạn 2017 - 2021, vụ Xuân 2019 phòng nông nghiệp & PTNT huyện Thanh Liêm đã phối hợp với  Chi cục Trồng trọt&BVTV triển khai mô hình ứng dụng giống lúa thuần mới, chất lượng cao HDT10. Mô hình hướng tới mục tiêu lựa chọn giống lúa thuần mới, chất lượng cao, đảm bảo năng suất, chất lượng cao, phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai và canh tác ở địa phương.  Nhờ vào đặc điểm nhiễm bệnh bạc lá nhẹ, có khả năng thay thế được giống lúa Bắc Thơm số 7.

Với quy mô 10ha, mô hình được triển khai tại cánh đồng 42, thôn 2 Tâng, xã Thanh Hương huyện Thanh Liêm. Lấy giống Bắc thơm số 7 để làm đối chứng so sánh. Doanh nghiệp phối hợp cung ứng giống và tiêu thụ sản phẩm cho mô hình là Công ty TNHH MTV đầu tư và phát triển Nông nghiệp Hà Nội.

Được biết HDT10 là giống lúa thơm, chất lượng cao được Viện cây lương thực và Cây thực phẩm chọn tạo bằng phương pháp lai hữu tính chọn kiểu gen thơm bằng chỉ thị phân tử AND. HDT10 là giống lúa thuần, giống cảm ôn, có thể gieo trồng 2 vụ/năm (xuân muộn và mùa sớm), đã được Cục Trồng trọt của Bộ công nhận chính thức trong đầu tháng 1 năm 2019. Mô hình được gieo cấy ở trà xuân muộn bằng hình thức gieo sạ với mật độ trung bình 80-100 cây/m2. Để đạt hiệu quả cao, mô hình đã tổ chức tập huấn kỹ thuật cho cán bộ HTXDVNN, các hộ nông dân trong mô hình, phát quy trình kỹ thuật cho từng hộ, bón phân NPK Lâm Thao theo quy trình kỹ thuật…

Qua theo dõi mô hình cho thấy: Giống HDT10 có tỷ lệ nảy mầm cao (>95%), sức sống tốt, thời gian sinh trưởng ngắn (vụ xuân 106 ngày), ngắn hơn 5 ngày so với giống Bắc thơm số 7. Thời gian lúa trỗ tập trung 4-5 ngày, giúp cây lúa tránh được diễn biến bất thuận của điều kiện thời tiết vào giai đoạn trỗ bông.

Dựa vào các chỉ tiêu theo dõi so sánh với đối chứng HDT10 cho thấy: Về khả năng chống chịu sâu bệnh vè điều kiện ngoại cảnh: HDT10 nhiếm bệnh khô vằn nhẹ hơn so với đối chứng, bệnh xuất hiện muộn hơn và phát triển chậm. Đối chứng giai đoạn phát triển đòng tỷ lệ bệnh là 11,0%, chỉ số bệnh 2,2%; giai đoạn lúa chín sữa tỷ lệ bệnh 17,0%, chỉ số bệnh 3,2%. Đồng thời có khả năng chống chịu tốt với bệnh bạc lá, giai đoạn lúa chín sữa chưa phát hiện thấy bệnh phát sinh gây hại. Các dịch hại khác như sâu cuốn lá nhỏ, rầy nâu so với đối chứng Bắc thơm số 7 là tương đương. Trong vụ, giống HDT10 phun thuốc trừ dịch hại 2 lần (ít hơn 1 lần so với ruộng đối chứng) trừ cỏ, ốc bươu vàng và các dịch hại.

Về năng suất, so với giống Bắc thơm số 7, HDT10 có số bông/m2 nhiều hơn 12 bông/m2; số hạt chắc/bông nhiều hơn 11 hạt/bông (tỷ lệ hạt chắc cao hơn 4,1%). Năng suất thực thu của giống HDT10 đạt 228,8kg/sào (63,6 tạ/ha), cao hơn đối chứng 19,3%. Về hiệu quả kinh tế, trong cùng điều kiện, sản xuất bằng giống HDT10 so với Bắc thơm số 7 chi phí thấp hơn 24.500 đồng/sào nhờ việc giảm công phun thuốc BVTV và lượng thuốc. Năng suất cao hơn nên có lãi cao hơn 214.800 đồng/sào, tương ứng gần 6 triệu đồng/ha.

Để tiêu thụ sản phẩm, toàn bộ sản phẩm thóc sản xuất được Công ty TNHH đầu tư và phát triển Nông nghiệp Hà Nội khảo sát, thống nhất giá với HTXDVNN Tâng và các hộ sản xuất tại thời điểm mua dự kiến 6.700 đồng/kg thóc khô.

Tóm lại, HDT10 có khả năng sinh trưởng khoẻ, đẻ nhánh tập trung, tán lá gọn, lá đòng đứng màu xanh đậm, trỗ đều, có số bông và hạt chắc/bông nhiều hơn so với đối chứng. Khả năng chống chịu một số dịch hại như bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu, rầy lưng trắng ở mức độ khá và tương đương với giống đối chứng, nhưng độ nhiễm bệnh bạc lá và bệnh khô vằn nhẹ hơn.Về hình thái có hình dạng đẹp, lá to, cứng, đứng màu xanh đậm, thân cây cứng, hạt thon dài, mầu nâu sẫm.

Việc thực hiện thành công mô hình ứng dụng giống lúa mới HDT10 theo hướng sản xuất hàng hoá, quy mô tập trung gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế gấp 1,8 lần so với cấy giống cũ. Đây là hình thức không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa thay đổi cách thức sản xuất gắn liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm mang lại lợi nhuận cao cho nông dân. Mô hình còn là cơ sở khoa học mang tính pháp lý và thực tiễn cao để đưa vào chỉ đạo cơ cấu giống lúa thuần chất lượng trong vụ mùa 2019. Đồng thời nâng cao nhận thức của nông dân về một số giống lúa mới có năng suất chất lượng tốt, nhiễm sâu bệnh nhẹ, nhất là với bệnh bạc lá, nhằm loại dần các giống cây trồng cũ trong bộ giống đa dạng hiện nay vẫn đang sử dụng phổ biến không hiệu quả.

Theo https://khuyennonghanam.myharavan.com